Các bộ phân của cây tía tô gồm: Lá (tô diệp) vị cay tính ấm tác dụng giải cảm lạnh, điều hoà chức năng tiêu hoá, an thai, giải độc tôm cua. Cành (tô ngạnh) vị cay ấm tỳ phế, tác dụng lý khí, an thai, làm mạnh dạ dày, chống nôn mửa. Hạt (tô tử) vị cay ấm, tác dụng giáng khí, bình suyễn, trừ đờm, nhuận tràng; dùng trong các trường hợp cổ họng bị nghẽn tắc, khó thở, ho suyễn, ngực đầy tức. Tử tô bao là nụ tía tô, có dược tính tương đối bình hoà, thường dùng chữa phụ nữ đang mang thai hoặc sau sinh đẻ, cơ thể suy nhược mà bị cảm lạnh.
Theo dân gian, lá tía tô là vị thuốc quý chữa dị ứng, nổi mẩn ngứa, đau khớp do ăn cua cá, hải sản, bằng cách hái một nắm 50 - 80g hoặc hơn ăn sống hoặc xay nước uống ngày vài lần. Để trị lên đậu lấy bạch chỉ 2g, cát căn 2g, cát cánh 1,6g, chích thảo 1,2g, gừng tươi 3 lát, khương hoạt 1,6g, kinh giới 1,6g, liên kiều 2,8g, mộc thông 2,4g, ngưu bàng 2,8g, phòng phong 1,6g, sơn tra 3,2g, thăng ma 2g, thuyền thoái 1,6g, tiền hồ 2g, tô diệp 2g, tứ thảo 2,4g, xuyên khung sắc uống.
Lương y Nguyễn Văn Sáu (Trung tâm Y tế Bà Rịa)