Các yếu tố nguy cơ không thể kiểm soát được
Tuổi: Tuổi càng cao, nguy cơ xơ vữa mạch máu càng nhiều, người già từ 60 tuổi trở lên có tỷ lệ mắc bệnh động mạch chi dưới cao hơn.
Yếu tố gia đình: Tiền sử gia đình bị bệnh lý mạch máu ngoại biên hay bệnh tim mạch, hay đột quỵ. Những người này có nguy cơ xơ vữa mạch cao hơn.
Giới: Nam có nguy cơ xơ vữa mạch máu cao hơn nữ.
Các yếu tố nguy cơ có thể thay đổi được
Hút thuốc lá: Đây là nguy cơ chính của bệnh động mạch ngoại biên. Những người hút thuốc lá có nguy cơ bị bệnh động mạch ngoại biên sớm hơn khoảng 10 năm so với những người không hút thuốc.
Béo phì: Làm tăng nguy cơ lắng đọng mỡ dư thừa vào thành mạch (bệnh xơ vữa mạch máu), làm tăng tỷ lệ mắc bệnh động mạch chi, đặc biệt là chi dưới.
Rối loạn mỡ máu: Làm tăng nguy cơ xơ vữa mạch (do tăng lắng đọng chất béo ở thành động mạch).
Bệnh tiểu đường: Tiểu đường là yếu tố nguy cơ độc lập gây bệnh lý mạch máu ngoại biên. Người bệnh mắc tiểu đường thường có lớp nội mạc mạch cũng dễ bị tổn thương làm tăng nguy cơ lắng đọng mỡ dư thừa vào thành mạch, thành mạch dễ bị xơ hóa, gây tổn thương mạch máu từ các vi mạch nhỏ đến các mạch máu lớn. Bệnh lý mạch máu ngoại biên ở người đái tháo đường thường nặng hơn, tổn thương nhiều vị trí và khả năng điều trị can thiệp thấp hơn nhóm bệnh nhân khác
Bệnh tăng huyết áp: Áp lực trong thành mạch tăng lên có thể gây tổn thương thành mạch và gây lắng đọng các chất mỡ vào thành mạch gây xơ vữa mạch máu
Lười vận động thể lực: Hoạt động thể lực thường xuyên làm giảm nguy cơ nhồi máu cơ tim và đột quỵ. Chương trình tập luyện thể lực có giám sát là một trong những phương pháp điều trị hiệu quả cho bệnh nhân bị bệnh động mạch ngoại biên.
Vì vậy, để phòng tránh bệnh, tốt nhất nên bỏ thuốc lá, ăn những thức ăn có lợi cho sức khoẻ, tăng cường hoạt động thể lực, điều trị tích cực các bệnh lý là yếu tố nguy cơ của bệnh mạch máu ngoại biên.