Một nửa bệnh nhân lấy lại được thị lực
Đi đầu là các nhà khoa học thuộc Trung tâm Y tế Weill Cornell và Bệnh viện Presbyterian, New York (Mỹ). Họ đã truyền trực tiếp thuốc Melphalan (Alkeran) tới khối u nguyên bào võng mạc qua động mạch nuôi mắt. Melphalan là các chất alkylating, hoạt động bằng cách làm chậm hoặc ngăn chặn sự phát triển của các tế bào ung thư. Melphalan trước đây được sử dụng để điều trị một số loại ung thư như đa u tủy, buồng trứng. Thuốc bắt đầu được dùng trong điều trị khối u tại mắt như K võng mạc, K hắc mạc (melanoma) bởi hiệu quả, độc tính thấp.
Tuy nhiên, quan trọng nhất là phương thức đưa thuốc vào gần khối u, giúp điều chỉnh lượng hóa chất thích hợp, giảm liều do vậy giảm độc tính với toàn thân. Các ưu điểm nổi trội là diệt tế bào ung thư “đúng lúc, đúng chỗ, đúng liều”. Trong số 22 bệnh nhân được điều trị bằng phương pháp này, có 3/4 giữ lại được đôi mắt và một nửa số đó lấy lại được thị lực. Kỹ thuật này là hy vọng cho các bệnh nhân bị u nguyên bào võng mạc, vốn từ xưa đến nay hay phải bỏ mắt để ngăn chặn sự tiến triển của bệnh. Melphalan còn được truyền tĩnh mạch cho các di căn xa của K võng mạc, K hắc mạc hoặc tiêm nội nhãn khi có tế bào khối u lan tràn vào dịch kính.
Với các u nội nhãn của màng bồ đào (u mống mắt, thể mi, hắc mạc): Người ta đặc biệt cảnh giác với bệnh nhân u màng bồ đào, chỉ có một nhiễm sắc thể NST số 3 (monosomi) vì có thể phải chủ động bỏ mắt sớm do rất hay di căn sau 2 năm phát bệnh, còn lại có thể giữ lại mắt, bảo tồn thị lực.
Các máy phát laser thế hệ mới phát xung năng lượng thấp, phát tia kéo dài làm hạn chế biến chứng đáng kể so với các máy thế hệ cũ. Laser quang động dùng vỏ capsid của virus vận chuyển verteporfin vào khối u, sau đó chiếu laser bước sóng 689 nm vào có thể tiêu diệt tế bào khối u ngay lập tức là tin mừng trong lĩnh vực điều trị khối u màng bồ đào. Tấm xạ trị chứa Ruthenium có ống chuẩn trực, chế tác 3D cũng là vũ khí điều trị bảo tồn hiệu quả u hắc tố màng bồ đào (melanomas). Chùm tia photon cũng là ứng dụng mới để điều trị các khối u nông, thuộc diện bán phần trước, tránh được hủy hoại thể thủy tinh hay giác mạc. Với u mống mắt có thể laser hay xạ trị định vị chính xác vào khối u, xạ trị toàn bộ mống mắt nếu cần.
Những thành tựu mới được ứng dụng
Cắt khối u đường ngoài hay đường trong có dùng đèn nội soi, dầu nội nhãn (dầu nặng) là hai phương pháp được lựa chọn để điều trị bảo tồn. Sau mổ có thể xạ trị bổ sung vào bờ tổn thương để phòng di căn. Nhờ những hiểu biết mới về di truyền học qua kỹ thuật giải trình tự gene, các gene bệnh lý được tìm ra, qua đó kiểu di truyền của khối u cũng được thiết lập, nhiều yếu tố tiên lượng được tìm ra thêm…Ngoài ra, sử dụng thành tựu của giải Nobel y học năm 2018: Sunitinib ra đời, điều trị melanoma với tỷ lệ sống sót cao hơn hẳn so với các phương pháp khác. Miễn dịch huyết khối dùng Immunoembolization kết hợp với Ipilmumab, điều trị tới cùng- khi u di căn đến gan bằng cách gây huyết khối cho khối u gan bằng hạt cầu phóng xạ gắn Ytrium90 cũng là những lựa chọn mới nhằm bảo tổn thị lực, kéo dài tuổi thọ cho bệnh nhân.
Các loại ung thư của phần phụ nhãn cầu (PPNC): Mi mắt, kết mạc, đường lệ, hốc mắt không hiếm gặp ở nước ta. Các viêm nhiễm mạn tính, phơi nhiễm tia UV, chủ quan không đi khám bệnh sớm cao là các yếu tố thúc đẩy ác tính hóa các tổn thương của PPNC. Các khối u gây biến dạng mi, lác mắt, lồi mắt… ảnh hưởng chức năng mắt như gây nhìn mờ, song thị, chảy nước mắt nhưng tiên lượng sống rất đáng mừng, tỷ lệ di căn xa khá thấp. Với mi mắt, kết mạc người ta sợ nhất các loại u hắc tố (melanomas) do u có thể di căn xa. Với u mi, hai loại u ác tính hay gặp nhất ở xứ nhiệt đới là ung thư liên bào đáy và u tuyến bã. Các loại u này ít di căn, có thể giải quyết tốt bằng phẫu thuật. Bên cạnh đó nhiệt trị liệu, laser, xạ trị vẫn còn tác dụng tốt, có tác dụng bổ trợ cho phẫu thuật.
Gần đây các công ty dược phẩm, các labo sản xuất các chế phẩm về miễn dịch trị liệu liên tục đưa ra những sản phẩm mới giúp cho điều trị tất cả các khối ác tính của mi, hốc mắt. Đầu tiên là các chế phẩm ức chế PD1 để điều trị các u hắc tố, u tế bào vảy và một vài loại u khác. Một vài loại protein có thể hoạt hóa tế bào lympho T4 được đưa vào cơ thể giúp bệnh nhân lấy lại được quy trình kiểm soát các khối u không những tại mắt mà còn là các bộ phận quanh mắt như da vùng đầu mặt. Các thuốc ức chế PD1 làm tăng tuổi thọ, khống chế di căn từ da vào mắt hay từ da vào hốc mắt rất hiệu quả. Bên cạnh đó là là thời gian bệnh không tái phát tại chỗ cũng duy trì được khá ấn tượng.
Các kháng thể đơn dòng, các chất ức chế phân tử nhỏ được coi là những phát minh mới để điều trị các bệnh lý khối u hốc mắt như u lympho hay một số thể viêm tổ chức hốc mắt. Rituximab là sản phẩm tiêu biểu góp phần vào thành công của công thức hóa trị liệu kinh điển CHOP, điều trị u lympho và tăng sản lympho PPNC. Người ta cũng đang lạc quan với việc dùng Vismodegib và Sonidegib để điều trị u hắc tố, u tế bào đáy của da nói chung và các phần da gần mắt.
BS Hoàng Cương (BV Mắt T.Ư)