Vị quan “văn, võ toàn tài”
Sách “Nhân vật chí” của Phan Huy Chú thời Hậu Lê ghi ông vào mục “Người phò tá có công lao tài đức”. Sách “Đại Nam nhất thống chí” đầu triều Nguyễn viết về tỉnh Hải Dương, mục “Nhân vật” có nêu tên ông, mục “Đền miếu” ghi “Đền Thượng thư họ Phạm”, chính là ngôi đền Phạm Thượng Quận. Sách “Hải Dương phong vật chí” soạn năm 1811 của Trần Đạm Trai, mục “Văn thần” chép tên ông. Sách “Hải Đông chí lược” soạn thời Nguyễn, mục “Liệt truyện tướng văn, tướng võ” ghi chép về ông...
Phạm Đình Trọng là người làng Khinh Dao, huyện Giáp Sơn, phủ Kinh Môn, tỉnh Hải Dương, nay là làng Khinh Dao, xã An Hưng, huyện An Dương, TP Hải Phòng. Năm 20 tuổi, ông đỗ Hương cống (Cử nhân thời Nguyễn), khoa thi Kỷ Mùi, niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 5 (năm 1739).
Ông đỗ Tiến sĩ, làm quan từ chức Cấp sự trung, trải thăng đến chức Bồi tụng, Thượng thư Bộ Binh, hàm Thái tử Thái bảo, tước Hải Quận Công. Ông được chúa Trịnh Doanh tự tay viết tặng chữ “Văn, võ toàn tài”, ban cho biển ngạch “Công thần đồng hưu”.
Di tích quốc gia Đền Phạm Thượng Quận. Ảnh: Cổng Thông tin điện tử Huyện An Dương.
Sở dĩ ông được thăng thưởng nhanh vì có công tham gia dẹp phỉ tại biên giới, phá được phong trào khởi nghĩa nông dân Nguyễn Hữu Cầu. Sau đó, ông được cử làm Đốc trấn Nghệ An, một trấn hiểm yếu của quốc gia. Ở đây, ông đề ra nhiều chính sách tốt, được sĩ phu, dân chúng kính trọng mến mộ, có những nơi làm sinh từ (đền thờ khi ông còn sống).
Ở chùa Dền (xã Kỳ Châu, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh), bia lập năm 1752 để thờ khi ông còn sống. Sau đó, ông bị Việp Quận Công Hoàng Ngũ Phúc ghen tài, đố kỵ, xúc xiểm với Chúa Trịnh. Chúa Trịnh thấy ông là người tài cao, có uy vọng lớn, nên cũng nghi kỵ, e ngại. Nhân dịp cuối năm, Chúa Trịnh sai người gửi tặng ông dải lụa bạch và bình rượu có thuốc độc, buộc ông tuẫn tiết.
Trong số bộ tướng của Phạm Đình Trọng, nhiều người phẫn uất. Đội trưởng đội Thanh Kỳ khuyên ông bỏ Trịnh theo Nguyễn. Phạm Đình Trọng vẫn giữ lòng trung và chấp nhận uống rượu độc. Ông mất nhằm ngày mùng 1 Tết Nguyên đán năm Canh Tuất. Sau khi ông mất, vua Cảnh Hưng và Chúa Trịnh cho quan về quê tế, có bài văn điếu khá thống thiết, lại gia phong hàm Thái phó, ban cho làm Phúc thần làng Khinh Dao.
Sau này, các làng Trung Thanh Lang, An Lão, làng Lâm Động, Thủy Nguyên cũng thờ Phạm Đình Trọng làm Thành hoàng. Ngoài ra, hai làng là Nội Trì và Yên Lã thuộc phường Tân Hồng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh cũng có đền thờ ông.
Sinh thời, Phạm Đình Trọng có công bảo vệ di sản văn hóa. Ông thẳng tay trị tội một số kẻ phá hoại văn miếu phủ Kinh Môn và đốc xuất khôi phục miếu này. Ông còn dựng bia văn miếu huyện Giáp Sơn. Con của ông là Phạm Đình Nghi lập nhiều công trạng, được thăng chức Trấn thủ Hải Dương, tước Đông Ngạn Hầu.
Giá trị của đền Phạm Thượng Quận
Ngày 29/3, Huyện ủy - Hội đồng nhân dân - Uỷ ban nhân dân - Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện An Dương (TP Hải Phòng) tổ chức Lễ đón nhận Bằng xếp hạng Di tích quốc gia Đền thờ Phạm Thượng Quận.
Theo tư liệu của Thành đoàn Hải Phòng, đền Phạm Thượng Quận được khởi dựng vào nửa cuối thế kỷ 18, sau khi ông mất, được triều đình sắc phong làm Phúc thần. Đền nằm trên gò đất khá cao, nhưng bằng phẳng, có thế phong thủy đẹp của làng Khinh Dao, nguyên quán của vị quan họ Phạm. Một số vị cao niên làng Khinh Dao kể lại rằng, ban đầu, đền có kiến trúc mặt bằng kiểu tiền nhất hậu đinh. Tòa hậu cung được làm theo thức chồng diêm nóc các trang trí đắp vẽ rất đặc sắc.
Đền nhìn về phía Tây, hướng vọng về ngôi chùa cổ Chiêu Tường, nơi có lăng mộ của Phạm Đình Trọng. Sau một thời gian dài, do tác động của thời tiết và các cuộc chiến tranh, đền bị xuống cấp nghiêm trọng. Gần đây, đền được khôi phục, tôn tạo khang trang, bền vững.
Lễ đón Bằng công nhận xếp hạng Di tích quốc gia Đền Phạm Thượng Quận. Ảnh: Cổng Thông tin điện tử Huyện An Dương.
Về tổng quan, đền Phạm Thượng Quận có mặt bằng kiến trúc chữ nhị với ba gian tiền bái, một gian hậu cung, làm theo thức chồng diêm nóc các, mái đao cong, lợp ngói mũi. Trên mái được trang trí đắp, vẽ các đề tài truyền thống như đỉnh giữa bờ nóc đắp lưỡng long chầu nguyệt, các góc đao đắp tổ hợp rồng chầu, phượng vũ...
Toàn bộ đền làm bằng bê tông cốt sắt, kết cấu từng tòa nhà ghép các cấu kiện kiến trúc và đổ bê tông thành một khối. Cách thi công này bảo đảm kiến trúc ngôi đền vững chắc. Tòa tiền bái kiểu một gian hai dĩ, bộ khung chịu lực gồm hai bộ vì, vì hai hàng chân cột, cột quân được thay bằng tường bao che của đền. Phần cổ diêm của các bộ vì bưng kín, tạo vỉ ruồi đỡ mái, trên phần vỉ ruồi vẽ tranh màu về rồng, mây hội hợp.
Vì nách thuận chồng ba con, trên xà nách và thuận đắp nổi hoa văn lá lật, đấu kê vuông thót đáy, đắp nổi hoa văn hoa sen cách điệu. Cửa tòa tiền bái cấu tạo 1 gian, đóng theo kiểu cửa cổ, cửa thùng khung khách. Hậu cung cấu tạo hai bộ vì, vì bốn hàng chân cột, kết cấu vì tương tự như bộ vì tòa tiền bái. Tòa hậu cung có cửa chính và hai cửa nách, cửa làm kiểu cửa thùng khung khách, cửa nách có một cánh rộng. Đi vào hậu cung đền chủ yếu qua hệ thống cửa nách.
Dù đã trải qua nhiều biến động lịch sử, đền Phạm Thượng Quận vẫn còn bảo tồn được khá nhiều cổ vật giá trị về lịch sử, mỹ thuật như thần tượng bằng gỗ quý có niên đại thế kỷ 19, long khám, ngai thờ mỗi loại 3 chiếc làm bằng chất liệu gỗ tốt có niên đại thế kỷ 19. Nhang án bằng gỗ tốt, có niên đại đầu thế kỷ 20. Bộ voi đá chầu trước cửa đền có niên đại thế kỷ 18. Đền sau khi tôn tạo đã được người dân cung tiến nhiều đồ thờ tự tế khí như cửa võng, câu đối, đại tự...
Trước đây, hàng năm, vào mùng 1 Tết Nguyên đán, tức ngày mất của Phạm Đình Trọng, và ngày 22/2 âm lịch (ngày sinh của ông), nhân dân địa phương tổ chức tế lễ dâng hương tại đền. Ngày nay, người dân vẫn kế thừa phát huy các tiết lệ trên. Ngoài ra, nhân dịp tiết lễ trên, dòng họ Phạm còn tổ chức biểu dương tặng thưởng cho con cháu có thành tích học tập tốt.
Trên phương diện du lịch, đền Phạm Thượng Quận nằm gần với đình Khinh Dao và chùa Cả, tạo thành quần thể di tích có nhiều giá trị về kiến trúc, về tín ngưỡng, tâm linh. Nếu được truyền thông tốt, đây sẽ là điểm đến hấp dẫn của du khách cả nước.