Canh cháo phù hợp giai đoạn bệnh
Cháo cát canh cho giai đoạn nhiệt độc xâm phạm phần vệ: Đạm đậu xị 15 - 20g, kinh giới 3 - 6g, ma hoàng 1 - 3g, cát căn 20 - 30g, chi tử 3g, sinh thạch cao 60 - 90g, gừng tươi 3 lát, hành tươi 2 củ, gạo tẻ 100g. Đem các vị thuốc sắc chừng 5 - 10 phút, bỏ bã lấy nước nấu với gạo thành cháo, chia ăn vài lần trong ngày. Công dụng: Sơ phong thanh nhiệt, giải biểu thấu tà.
Giai đoạn nhiệt độc xâm phạm phần vệ (tương đương với sốt xuất huyết (SXH) độ 1 theo phân loại của Tổ chức Y tế Thế giới). Biểu hiện: Phát sốt (ban đầu có thể kèm theo cảm giác sợ lạnh), đau đầu, đau lưng, đau mình mẩy và cơ khớp, môi khô, miệng khát, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi trắng và vàng mỏng, muộn hơn có thể xuất hiện triệu chứng như mắt đỏ, mặt đỏ, chân tay tê bì, ngực bụng đầy tức, nôn hoặc buồn nôn, đại tiện táo kết hoặc lỏng nát, tiểu tiện sẻn đỏ...
Cháo tri mẫu hoặc lá tre trị nhiệt độc xâm phạm phần khí: Thạch cao 30g, tri mẫu 10 - 15g, gạo tẻ 100 - 150g, đường phèn 5g. Các vị thuốc sắc kỹ lấy nước bỏ bã rồi cho gạo vào nấu thành cháo, hòa đường phèn, chia ăn 2 - 3 lần trong ngày. Công dụng: Thanh nhiệt giải độc.
Hoặc thạch cao 30 - 45g, lá tre tươi 30g, trúc tâm (Phyllostachys nigra) 30g, lô căn 30g, gạo tẻ 100 - 150g, đường phèn 5g. Các vị thuốc sắc lấy nước nấu với gạo thành cháo, hòa đường phèn chia ăn hai lần trong ngày. Công dụng: Thanh nhiệt giải độc.
Hai món này tốt cho bệnh ở giai đoạn xâm nhập phần khí (tương đương độ 1) với triệu chứng như sốt cao và rất cao, đau đầu, đau lưng, môi khô miệng khát, mặt đỏ, mắt đỏ, ngực bụng bức bối không yên, đại tiện táo kết, tiểu tiện sẻn đỏ, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng khô...
Cháo huyền sâm, tê giác trị nhiệt độc xâm phạm phần dinh và huyết: Sinh thạch cao 30 - 60g, huyền sâm 10g, tê giác 3 - 5g (có thể thay bằng thủy ngưu giác hoặc bột sừng trâu 6 - 10g), lá sen tươi nửa tàu, đậu xanh 30g, gạo tẻ 100g. Sắc thạch cao, huyền sâm và sừng trâu lấy nước rồi nấu với đậu xanh và gạo thành cháo, chia ăn vài lần trong ngày. Công dụng: Thanh nhiệt, lương huyết, giải độc.
Món này tốt cho người bệnh thuộc giai đoạn nhiệt độc xâm nhập phần khí, phần dinh và phần huyết (tương đương độ 2), với biểu hiện như sốt cao, môi khô miệng khát, tâm trạng bồn chồn không yên, có ban xuất huyết dưới da, thậm chí tinh thần có thể u ám, cháy máu cam, nôn hoặc đại tiện ra máu, chất lưỡi đỏ giáng, rêu lưỡi vàng khô hoặc xám đen.
Cháo sinh địa, xương dê giúp phục hồi: Sinh địa 30g, gừng tươi 2 - 3 lát, gạo tẻ 100g. Sắc sinh địa và gừng lấy nước nấu với gạo thành cháo, chế thêm chút đường phèn, chia ăn vài lần trong ngày. Công dụng: Tư thận thanh nhiệt, lương huyết sinh tân.
Hoặc xương dê 1.000g, gạo tẻ 100g, hành tươi 2 củ, gừng tươi 3 - 5g, gia vị vừa đủ. Xương dê đập vụn ninh lấy nước rồi cho gạo vào nấu thành cháo, chế thêm gia vị, chia ăn vài lần trong ngày. Công dụng: Bổ thận khí, kiện tỳ vị, mạnh gân cốt.
Hai món này phù hợp khi hết sốt, ban xuất huyết lặn dần, cơ thể mệt mỏi, chán ăn, đầu choáng mắt hoa, lưng đau gối mỏi, ngủ kém, đại tiện lỏng nát...
Trà thuốc theo giai đoạn
Giai đoạn nhiệt độc xâm phạm phản vệ: Trà lá dâu + hoa cúc gồm tang diệp (lá dâu) 5g, cúc hoa 5g, bạc hà 3g, ty qua hoa (hoa mướp) 10g, mật ong 15g. Các vị thuốc tán vụn, hãm với nước sôi trong bình kín, sau 20 phút thì dùng được, hòa mật ong uống thay trà trong ngày. Công dụng: Thanh nhiệt sơ biểu, giải độc thấu tà.
Trà kim ngân hoa: Kim ngân hoa 10g, sơn tra 10g, cúc hoa 10g, mật ong 15 - 30g. Các vị thuốc tán vụn hãm với nước sôi trong bình kín, sau 20 phút thì dùng được, hòa thêm mật ong uống thay trà trong ngày. Công dụng: Sơ phong thanh nhiệt.
Giai đoạn nhiệt độc xâm phạm phần khí, phần dinh và phần huyết: Trà lê + ngó sen gồm lê 4 - 5 quả, ngó sen tươi 30g, lá sen tươi nửa tàu, sinh thạch cao 60 - 90g, sinh địa 15 - 20g, đường phèn lượng vừa đủ. Sắc sinh thạch cao, ngó sen và lá sen lấy chừng một bát nước; lê gọt vỏ, thái vụn rồi ép lấy nước cốt; hòa hai thứ nước với nhau, chế thêm đường phèn rồi chia uống vài lần trong ngày. Công dụng: Thanh nhiệt, lương huyết, giải độc.
Giai đoạn phục hồi: Trà đẳng sâm + Hoàng kỳ gồm đẳng sâm 15g, hoàng kỳ 20g, bạch truật 12g, mạch nha sao 12g, trần bì 8g, đại táo 10g, gừng tươi 2 lát. Các vị tán vụn, hãm với nước sôi trong bình kín, sau 20 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày. Công dụng: Bổ trung ích khí, kích thích tiêu hóa.
Nhìn chung, các món ăn - bài thuốc nêu trên đều khá đơn giản, dễ kiếm, dễ chế, dễ dùng và rẻ tiền. Có thể sử dụng để dự phòng tích cực hoặc hỗ trợ điều trị SXH tùy từng giai đoạn cụ thể khác nhau. Thời kỳ cấp tính, liệu pháp dùng thuốc là chính, món ăn - bài thuốc là phụ với yêu cầu lỏng, thanh đạm và dễ tiêu; thời kỳ hồi phục, liệu pháp dùng thuốc là phụ, món ăn - bài thuốc là chính, tùy theo chứng trạng cụ thể mà lựa chọn và chế biến cho phù hợp.