Bệnh nặng mà không biết
Theo sản phụ L. T. L. 21 tuổi (Hồng Thái Đông – Đông Triều) cho biết, trước khi nhập viện sản phụ không hề biết bản thân bị tiền sản giật.
Sau khi nhập viện, sản phụ được thăm khám và làm các xét nghiệm, kết quả cho thấy: Tình trạng phù 2 chân, huyết áp cao, cơn co tử cung tần số 2, siêu âm thai ước lượng cân nặng 1.700gram. Sản phụ được chẩn đoán bị tiền sản giật nặng, thai chậm phát triển.
Ca phẫu thuật nhanh chóng diễn ra, bé trai chào đời an toàn với cân nặng 1.880gram và được các bác sĩ Sơ sinh kiểm tra sức khỏe ngay tại phòng phẫu thuật. Về phía sản phụ khi tiến hành phẫu thuật có khối máu tụ sau rau. Sau phẫu thuật sức khỏe mẹ con sản phụ ổn định.
Qua đây, các bác sĩ khuyến cáo các mẹ bầu: Ngay từ những tháng đầu thai kỳ, cần thực hiện các xét nghiệm tầm soát tiền sản giật để chủ động phòng ngừa và điều trị.
Trong 3 tháng cuối, khi có những biểu hiện bất thường như tăng huyết áp, phù chân, sản phụ cần khám thai tại các cơ sở uy tín để có hướng điều trị kịp thời và phát hiện sớm thai chậm phát triển và có dự phòng, đặc biệt là can thiệp để mổ lấy thai đúng thời điểm tránh tình trạng thai chết lưu hoặc nguy cơ trẻ sơ sinh diễn biến nặng có thể tử vong.
Mẹ bầu nguy kịch mà không biết tiền sản giật: sản phụ chớ chủ quan |
Nguy cơ tử vong cả mẹ và con
Các chuyên gia sản Phụ khoa cho biết, tiền sản giật – sản giật là một trong 5 tai biến sản khoa hàng đầu tại Việt nam cùng với băng huyết sau sinh, nhiễm trùng hậu sản, vỡ tử cung và uốn ván rốn. Tỷ lệ tử vong mẹ cao nhất là băng huyết sau sinh chiếm 31%, sau đó là tiền sản giật 16%. Tỷ lệ tử vong ở con là 30%.
Tiền sản giật là bệnh nhiễm độc thai thường gặp, chiếm tỷ lệ 2-8% số phụ nữ mang thai, phần lớn xảy ra trong thời kỳ mang thai đầu tiên. Đây là một hội chứng gồm cao huyết áp, protein niệu và có thể có phù hay không phù xuất hiện sau tuần thứ 20 của thai kỳ ở những sản phụ trước đó có huyết áp bình thường.
Trong bệnh lý này có hiện tượng giảm tưới máu cơ quan thứ phát do co thắt mạch và hoạt hóa nội mạch; gây rối loạn và tổn hại nhiều hệ cơ quan của người mẹ: thận, gan, não, hệ thống đông máu, bánh nhau. Tiền sản giật cũng có thể xuất hiện trước 20 tuần ở những bệnh nhân thai trứng hoặc bệnh lupus…, đôi khi kèm theo các triệu chứng: nhức đầu, hoa mắt, ù tai, rối loạn ý thức…
Tiền sản giật có hai mức độ: nhẹ (huyết áp ≥140/90mmHg; protein niệu ≥ 300mg nước tiểu 24 giờ hay ≥ 1+ trên que nhúng); Nặng (huyết áp 160/110 mmHg, protein niệu ≥ 2000mg nước tiểu 24 giờ hay ≥ 2+ trên que nhúng, thiểu niệu khi lượng nước tiểu trong 24 giờ ≤ 400 mg, creatinin huyết thanh ≥ 1,2 mg/dL; phù phổi, nhức đầu, thay đổi thị giác, đau thượng vị; suy chức năng gan, giảm tiểu cầu, thai chậm tăng trưởng…
Tiền sản giật không được điều trị có thể dẫn đến biến chứng rau bong non, phù phổi, xuất huyết não, rối loạn tâm thần cho mẹ hoặc tử vong (10%). Do chưa xác định được nguyên nhân của tiền sản giật nên chưa có cách điều trị đặc hiệu và phòng ngừa bệnh này.
Sản giật là sự xuất hiện cơn co giật ở sản phụ bị tiền sản giật và không có nguyên nhân khác. Sản giật có thể xuất hiện trước, trong và sau chuyển dạ. Khoảng 10% trường hợp sản giật, đặc biệt ở người con so, xuất hiện sau 48 giờ hậu sản.
Khi có dấu hiệu tiền sản giật, nhất là tiền sản giật nặng hay đã có sản giật, để bảo toàn tính mạng người mẹ, tránh các biến chứng nguy hiểm như: xuất huyết não, phù phổi cấp, suy gan, suy thận, rối loạn đông máu…cần phải chấm dứt thai kỳ.
Các thuốc hạ áp, ngừa co giật chỉ tạm khống chế diễn tiến bệnh. Sự sống của thai nhi tùy thuộc vào tuổi thai (dưới 28 tuần khả năng sống cực thấp, trên 34 tuần tiên lượng khá hơn), mức độ ảnh hưởng của co thắt mạch trên sự tăng trưởng của thai. Sau sinh hay mổ sinh các triệu chứng của tiền sản giật, sản giật thường mất sau 1 – 2 tuần.
Hiện chưa có cách dự phòng tiền sản giật. Muốn tránh được tiền sản giật giúp giảm tỷ lệ tai biến và giảm tỷ lệ tử vong cho mẹ và con, phải phát hiện và điều trị sớm nhiễm độc thai nghén. Do đó, phải đi khám thai đều đặn.
Các nguyên nhân gây tử vong mẹ: Băng huyết sau sinh 31%; nhiễm trùng 13%, nạo phá thai 9%, tiền sản giật – sản giật 16%, vỡ tử cung 4% và 24% chưa rõ nguyên nhân.