Có hiệu quả, nhưng khó áp dụng
Theo báo cáo đánh giá hiệu quả Dự án thí điểm xử lý một đoạn sông Tô Lịch và một góc Hồ Tây của công ty JVE, về chỉ số nồng độ mùi tại khu vực trước xử lý đạt giá trị 999, là giá trị cao nhất trong phạm vi đo của máy. Nồng độ mùi thực tế có thể cao hơn giá trị này. Chỉ số nồng độ mùi tại khu thí điểm chỉ đạt giá trị 5, nồng độ mùi hôi thối giảm từ 999 xuống 5, tức giảm tới 200 lần. Công ty JVE cũng cho biết lượng bùn dưới đáy sông Tô Lịch đã bị phân hủy và giảm rõ rệt trong khu vực xử lý mà không cần áp dụng các biện pháp nạo vét cơ học. Khu vực quây tôn xử lý, điểm 25m trong khu quây, độ dày bùn giảm từ 53cm xuống còn 18cm, giảm 35cm. Điểm 30m, độ dày bùn giảm từ 55cm xuống còn 20cm, giảm 35cm.
Các chỉ tiêu quan trắc chất lượng nước sau xử lý có 36/36 chỉ tiêu đạt QCVN 08-MT:2015/BTNMT. Trong đó hầu hết các chỉ số đạt tới cột A1 (quy định chất lượng nước dùng cho mục đích cấp nước sinh hoạt), một vài chỉ số đạt các cột A2, B1, B2. Nồng độ pH=7,0 ổn định đạt trong khoảng cho phép, chỉ tiêu DO (hàm lượng oxy hòa tan còn dư lại) sau khi đã cung cấp oxy cho vi sinh vật hiếu khí hấp thụ và lượng oxy tiêu hao trong quá trình phân hủy bùn hữu cơ vẫn đạt từ 4,69mg/l, xấp xỉ cột A2 của Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về chất lượng nước mặt (QCVN 08-MT:2015/BTNMT), là điều kiện rất tốt cho cá, thủy sinh phát triển tốt.
PGS.TS Trần Hồng Côn, Khoa Hóa - Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (Đại học Quốc gia Hà Nội) cho biết, kết quả này là đúng, không có gì phải nghi ngờ. Đơn giản, nước sông Tô Lịch bốc mùi hôi thối là do thiếu oxy. Khi được sục khí, cung cấp oxy, các vi sinh vật sẽ tự ăn hết các chất hữu cơ, dẫn đến hết mùi hôi, lớp bùn giảm đi. Kết quả tốt là vậy nhưng giải pháp này không có tính khả thi bởi nhiều lý do.
Đừng biến hồ thành bể cá
Theo PGS.TS Trần Hồng Côn , công nghệ này chỉ áp dụng cho những vùng nước ô nhiễm tĩnh, không có dòng chảy. Trong khi đó sông Tô Lịch thường xuyên được bổ cập nước thải, rất khó áp dụng công nghệ này. Còn đối với Hồ Tây, là vùng nước tĩnh. Nhưng sẽ ra sao nếu một chiếc hồ tự nhiên đang đẹp như thế mà súc khí ầm ào cả ngày?
Hơn nữa, người ta không bao giờ áp dụng công nghệ sục khí quanh năm ở các hồ để xử lý nước, mà phải áp dụng các biện pháp xử lý an toàn sinh học tự nhiên. Nước hồ được sục khí sẽ chẳng khác gì bể cá cảnh, rất khó khả thi. Hơn nữa, hệ sinh thái trong hồ, tôm, cá liệu có chịu được không nếu cứ sục khí ầm ầm quanh năm như thế. Rồi sẽ lại phải có nhân công túc trực để bảo vệ hệ thống sục. Không nên biến cả con sông hay hồ lớn đẹp như Hồ Tây thành bể cá. Dù về nguyên lý xử lý nước thải thì không sai, nhưng cách thức thực hiện thì không được.
Sẽ rất đáng hoan nghênh nếu phía đối tác Nhật Bản thu gom nước thải sông Tô Lịch, xử lý sạch rồi mới đổ trở lại sông. Như thế không ảnh hưởng gì đến hệ sinh thái, mỹ quan, cũng không phải tốn kém nhân lực để kiểm soát các trạm xử lý, mà lại bền vững lâu dài. Còn với đề xuất áp dụng rộng rãi công nghệ này để xử lý ở cả dòng sông Tô Lịch và Hồ Tây thì không ổn. Không thể sục được cả hồ Tây, kinh phí sẽ cực lớn. Và cũng không thể lắp các trạm sục dọc sông Tô Lịch bởi còn phải tính đến sau này phát triển du lịch, sinh thái trên dòng sông.
PGS.TS Trần Hồng Côn cũng cho hay, việc xử lý nước thải ở sông Tô Lịch không phải là khó, bản thân các nhà khoa học Việt Nam cũng có thể làm được. Chính ông đã nhiều lần thử nghiệm và thực hiện xử lý nước thải, biến nước thải thành nước uống. Tuy nhiên, để ứng dụng rộng rãi, còn nhiều rào cản về các quy định. Nên đừng vội trách các nhà khoa học Việt Nam đâu, mà để cho nước ngoài họ làm.
Đánh giá về công nghệ Nhật Bản, Bộ trưởng Bộ trưởng Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà cho biết, về mặt công nghệ, ông không nghi ngờ gì bởi công nghệ đã được Nhật Bản thử nghiệm, thẩm định. Tuy nhiên quan trọng nhất là công nghệ phải phù hợp với đặc thù nước sông hồ có nhiều nguồn thải ở Việt Nam và phải phù hợp cả về điều kiện kinh tế.
Tô Hội