Trong y học dân gian, vỏ thân, vỏ rễ, hoa, nụ hoa, lá tươi và nhựa cây đại đều được sử dụng làm thuốc, nhưng sử dụng nhiều nhất là hoa. Toàn cây có chứa một loại kháng sinh thực vật là fulvo plumierin, có tác dụng ức chế sự tăng sinh và phát triển của một số vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis.
Trong vỏ thân có glucozit là agoniadin và một chất đắng là plumierit. Vỏ thân và rễ hơi có độc, vị đắng, tính mát. Lá cây đại chữa bong gân, sai khớp, mụn nhọt.
Hay nhựa mủ chứa thành phần chủ yếu là axit plumeric có thể dùng nhựa mủ để tẩy xổ, nhuận tràng, chữa táo bón và thuỷ thũng. Hoa đại có công dụng tiêu đờm, trừ ho, hạ áp, làm thuốc chữa ho, kiết lỵ... hoa đại khô có công hiệu mạnh hơn hoa tươi.
Chữa cao huyết áp: Lấy từ 12 - 20g hoa đại (khô), đem sắc lấy nước, uống thay trà trong ngày. Uống hằng ngày.
Bong gân: Dùng một lá tươi rửa sạch, giã nhuyễn, trộn với một ít muối ăn đắp lên chỗ sưng. Lại dùng một ít lá tươi khác, hơ lên lửa cho héo và đắp phía ngoài rồi cố định bằng băng hoặc vải sạch. Ngày đắp 1 – 3 lần liên tục như vậy 1 – 2 ngày.
Đau nhức hay mụn nhọt: Lấy lá tươi giã nhuyễn đắp vào.
Trị chân răng sưng đau: Lấy vỏ rễ ngâm rượu, dùng ngậm rất hiệu quả (chú ý không được nuốt vì có độc).
Trị chứng ho: Dùng 4 – 12g hoa đại khô, sắc lấy nước, uống thay trà trong ngày (dùng loại hoa cánh trắng, tâm điểm vàng sẽ hiệu quả hơn).
Lưu ý: Người suy nhược, già yếu, phụ nữ có thai, tiêu chảy không nên dùng do các thành phần trong cây có tác dụng tẩy xổ khá mạnh và hơi có độc. Cần tham vấn thầy thuốc trước khi sử dụng.
BS Xuân Hoàng (Bộ Y tế)