Mẹ đỡ đầu của chiến hạm - Lolita Zinke - thực hiện nghi lễ đập chai champagne trên mũi tàu Santa Barbara, chiếc LCS thứ 16 do Austal USA thiết kế và thi công và là chiếc thứ 3 của Hải quân Mỹ, đặt theo tên thành phố ven biển California.
Bà Zinke là vợ của cựu Nghị sĩ và cựu Bộ trưởng Nội vụ Mỹ Ryan Zinke. Bà được Bộ trưởng Hải quân khi đó là Richard Spencer lựa chọn làm mẹ đỡ đầu cho chiến hạm USS Santa Barbara (LCS 32) của tương lai. Bà Zinke sinh ra và lớn lên ở Santa Barbara.
Chương trình LCS biến thể Độc lập được cho là đã triển khai thành công, dự kiến sẽ đóng thêm nhiều chiến hạm trong tương lai gần.
Tháng 5/2020, USS Montgomery (LCS 8) thực hiện các chiến dịch “tự do hàng hải” ở Biển Đông.
Cuối tháng 5/2020, USS Gabrielle Giffords (LCS 10) cũng tiến hành các hoạt động tương tự trên vùng nước này.
Tháng 12, Giffords được điều chuyển sang hỗ trợ Bộ Tư lệnh Phương Nam của Mỹ ở Caribe và phía đông Thái Bình Dương, ngăn chặn và thu giữ một con tàu với 100 triệu USD ma túy.
Tháng 6/2020, USS Tulsa (LCS 16) thực hiện các hoạt động diễn tập quân sự với đồng minh trên Biển Philippines, USS Charleston (LCS 18) tham gia huấn luyện với hải quân Sri Lanka tại Malaysia.
Hiện có 3 chiếc LCS biến thể độc lập nằm trong biên chế phối thuộc Bộ Tư lệnh Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của Mỹ.
Austal USA tổ chức lễ rửa tội (chuẩn bị hạ thủy) cho Chiến hạm Littoral biến thể Độc lập USS Santa Barbara (LCS 32)
LCS 32 là chiến hạm thứ 32 trong lớp LCS. Đây là hạm tàu Hải quân thứ 3 được mang tên vinh danh thành phố Santa Barbara.
Chiếc USS Santa Barbara đầu tiên (số thân tàu 4522) là một tàu vận tải được Hải quân đưa vào biên chế ngày 15/4/1918 tại New York. Con tàu đã thực hiện bốn chuyến vận tải hai chiều đến châu Âu trong và sau Đại chiến Thế giới thứ nhất, dừng hoạt động ngày 6/8/1919 và trở về với chủ sở hữu.
Sau được đổi tên thành American, tàu bị ngư lôi tàu ngầm Đức đánh chìm ngoài khơi bờ biển phía đông Honduras thuộc Anh (Belize ngày nay) ngày 11/6/1942.
Chiếc USS Santa Barbara thứ hai (AE-28) được đưa vào biên chế ngày 11/7/1970.
USS Santa Barbara (LCS-32) có chiều dài 127,4 m, mớn nước 4,27 m và lượng giãn nước 3.104 tấn. Thủy thủ đoàn 40 người bao gồm 8 sĩ quan và 32 thủy thủ.
Hệ thống động lực LCS-32 bao gồm động cơ hai tuabin khí, hai động cơ diesel, bốn chân vịt phản lực, một chân vịt đẩy Azimuth có thể thu vào, bốn máy phát điện diesel. Chiến hạm đạt tốc độ tối đa 40 hải lý / giờ (87 km / h) với tầm hoạt động tối đa là 4.300 hải lý (8.000 km), tốc độ 20 hải lý / giờ (37 km / h).
LCS-32 được trang bị một pháo hạm BAE Systems Mk 110 57 mm, bốn súng máy .50 cal (12,7 mm) và hệ thống phóng tên lửa di động Evolved SeaRAM 11. Sàn boong đáp rộng 1.030 m2, cho phép 2 trực thăng SH-60 Seahawk cất hạ cánh, nhiều máy bay không người lái hoặc 1 trực thăng vận tải CH-53 Sea Stallion.
LCS là một phương tiện tác chiến hải quân có những đặc tính là tốc độ cao, nhanh nhẹn và linh hoạt, được thiết kế để hoạt động trên vùng nước gần bờ, nhằm đối phó với các mối đe dọa ven biển thế kỷ 21.
Chiến hạm LCS có những tính năng kỹ chiến thuật cho phép thực hiện các nhiệm vụ tác chiến tiền phương, an ninh hàng hải, kiểm soát và răn đe trên biển.
Lớp LCS có hai biến thể, Freedom và Independence, được thiết kế và chế tạo bởi hai tập đoàn công nghiệp quốc phòng lớn.
Lớp biến thể Freedom do Lockheed Martin thực hiện ở nhà máy đóng tàu tại thành phố Marinette, Wisconsin (thân tàu mang số lẻ).
Lớp biến thể Independence (Độc lập) do công ty Austal USA thực hiện tại nhà máy đóng tàu tại thành phố biển Mobile, Alabama, (LCS 6 và các thân tàu mang số chẵn tiếp theo).