1. Chất béo (lipid)
Theo khuyến nghị của Viện Dinh Dưỡng tổng lượng chất béo nên từ 15 - 20% tổng năng lượng trong ngày. Tuy nhiên, loại chất béo sử dụng quan trọng hơn tổng lượng chất béo. Chất béo có hai loại, chất béo bão hòa (còn gọi axit béo no) và chất béo không bão (axit béo không no). Chế độ ăn có nhiều axit béo no (có nhiều trong mỡ, bơ, thức ăn nhanh, thức ăn công nghiệp được chế biến ở nhiệt độ cao) làm tăng nguy cơ mắc bệnh mạch vành. Theo các khuyến cáo gần đây lượng axit béo no nên dưới 10% tổng năng lượng.
Trong khi đó axit béo không no làm giảm nguy cơ này. Khi thay thế axit béo no bằng acid béo không no có tác dụng làm giảm nguy cơ tim mạch. Tuy nhiên, năng lượng từ axit béo này không nên vượt quá 10% tổng năng lượng. Vì thế, các chuyên gia khuyên mỗi tuần nên có 3 - 5 lần ăn cá, hải sản, thay thế cá cho thịt. Đối với những người không thích ăn cá và hải sản có thể sử dụng dầu cá thiên nhiên mỗi ngày 2 - 3g.
2. Chất đường (glucid)
Thay thế axit béo no bằng lượng năng lượng từ axit béo không no hoặc glucid đều có tác dụng tốt để giảm nguy cơ mắc bện xơ vữa động mạch. Cơ cấu khẩu phần nên có trên 55% năng lượng từ glucid.
3. Chất đạm (protid):
Đạm thực vật có những ảnh hưởng có lợi cho sức khỏe so với đạm động vật, đặc biệt liên quan với tình trạng cholesterol máu. Những nước dùng đạm đậu nành cao có tỷ lệ tử vong do tim mạch thấp hơn so với những nước ăn nhiều đạm động vật.
Nhiều nghiên cứu cho thấy, mối tương quan giữa lượng đạm đậu nành ăn vào với giảm nguy cơ bệnh tim mạch và bệnh mạn tính. Các chuyên gia dinh dưỡng của Mỹ khuyến cáo: để giảm các nguy cơ của bệnh tim mạch nên ăn ít nhất 25g đạm đậu nành/ngày.
4. Chất xơ (fiber):
Chất xơ có trong thực phẩm hiện diện ở thành tế bào và những thành phần của thực vật không được tiêu hóa. Một số thành phần xơ có khả năng giữ nước cao và được gọi là xơ tan. Xơ tan có trong các lọai thực phẩm như một số trái cây, nước trái cây (mận, quả mọng), bông cải, cà rốt, khoai tây, khoai lang, hành. Xơ tan có khả năng làm giảm nguy cơ bệnh tim mạch.
Ngoài ra, chất xơ còn gây cảm giác no giúp tránh ăn quá nhiều năng lượng gây tăng cân. Do đó, khuyến cáo chung khuyên nên ăn 20 - 35g chất xơ trong ngày.
5. Rượu (alcohol).
Những nghiên cứu cho thấy nếu tiêu thụ lượng rượu trong mức cho phép liên quan đến giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch. Tuy nhiên, nếu uống rượu quá nhiều và kéo dài liên quan đến tăng nguy cơ tim mạch, tăng huyết áp và đột quỵ. Lượng khuyến nghị nên dưới 30g alcohol.
6. Các vi chất dinh dưỡng.
Các vi chất dinh dưỡng như các vitamin và khoáng chất rất cần cho quá trình chuyển hóa trong cơ thể. Khi thiếu vitamin B12, B6, axit folic làm tăng nguy cơ mắc bệnh mạch máu. Nhưng trong chế độ dinh dưỡng hiện nay, hầu hết còn chưa cung cấp đủ các vi chất, vì thế cần được bổ sung các thực phẩm giàu vitamin (từ rau và trái cây).
Ngoài ra, các chất chống oxi hóa cũng ảnh hưởng đến quá trình xơ vữa động mạch. Chế độ ăn có nhiều chất chống oxy hóa (vitamin E, vitamin A, vitamin C, selen) có thể giảm tới 20 - 40% nguy cơ bệnh mạch vành.
Bên cạnh đó, các muối khoáng vô cùng quan trọng trong chế độ dinh dưỡng, nhất là trong tim mạch. Natri (từ muối ăn) và các chất điện giải khác đều ảnh hưởng đến huyết áp. Khoảng 50% người cao huyết áp có nhạy cảm với muối. Giảm lượng Natri giúp phòng ngừa chứng cao huyết áp và cũng được xem như một phương pháp điều trị bệnh tăng huyết áp.
Khuyến cáo gần đây khuyên nên hạn chế lượng muối ăn vào dưới 6g/ngày bằng cách chọn những thức ăn ít muối và hạn chế ă n thức ăn đóng hộp, không ăn kèm muối khi ăn ví dụ như khi ăn trái cây…
Ngược lại, K, Mg, Ca liên quan nghịch với huyết áp. Chế độ ăn đủ các vi chất này giúp làm giảm huyết áp. Để tăng cường các chất điện giải này bằng cách tăng cường ăn lượng rau, trái cây, ngũ cốc nguyên hạt, và các sản phẩm làm từ sữa ít béo.