1. Tổng năng lượng
Béo phì là một yếu tố nguy cơ đối với bệnh tim mạch. Đồng thời, sự phân bố mỡ trong cơ thể cũng là một yếu tố quan trọng, người béo bụng có nguy cơ cao nhất. Nguy cơ suy tim tăng gấp đôi ở những bệnh nhân béo phì (BMI >= 30).
Để có thể giảm cân người béo phì cần có chế độ ăn kiêng hợp lý và tập luyện phù hợp cho từng cá nhân. Giảm năng lượng nhập vào là phương pháp chính trong điều trị béo phì. Một chế độ ăn với năng lượng giảm từ 500 - 1.000kcal trong ngày giúp làm giảm từ 0,5 - 1,0kg trong vòng 1 tuần.
2. Chất béo (lipid)
Theo khuyến nghị của Viện Dinh dưỡng Quốc gia, tổng lượng chất béo nên từ 15 - 20% tổng năng lượng trong ngày. Chế độ ăn có nhiều axit béo no (có nhiều trong mỡ, bơ, thức ăn nhanh, thức ăn công nghiệp được chế biến ở nhiệt độ cao) làm tăng nguy cơ mắc bệnh mạch vành. Theo các khuyến cáo gần đây lượng axit béo no nên dưới 10% tổng năng lượng.
Thay thế axit béo no bằng axit béo không no có tác dụng làm giảm nguy cơ tim mạch. Tuy nhiên, năng lượng từ axit béo này không nên vượt quá 10% tổng năng lượng. Vì thế, các chuyên gia khuyên mỗi tuần nên có 3 - 5 lần ăn cá, hải sản, thay thế cá cho thịt. Đối với những người không thích ăn cá và hải sản có thể sử dụng dầu cá thiên nhiên mỗi ngày 2 - 3g.
Ảnh minh họa. |
3. Chất đường (glucid)
Thay thế axit béo no bằng lượng năng lượng từ axit béo không no hoặc glucid đều có tác dụng tốt để giảm nguy cơ mắc xơ vữa động mạch. Cơ cấu khẩu phần nên có trên 55% năng lượng từ glucid.
4. Chất đạm (protid)
Đạm thực vật có những ảnh hưởng có lợi cho sức khỏe so với đạm động vật, đặc biệt liên quan với tình trạng cholesterol máu. Nhiều nghiên cứu cho thấy, mối tương quan giữa lượng đạm đậu nành ăn vào với giảm nguy cơ bệnh tim mạch và bệnh mãn tính. Các chuyên gia dinh dưỡng của Mỹ khuyến cáo: Để giảm các nguy cơ của bệnh tim mạch nên ăn ít nhất 25g đạm đậu nành/ngày.
5. Chất xơ (fiber)
Chất xơ có trong thực phẩm hiện diện ở thành tế bào và những thành phần của thực vật không được tiêu hóa. Một số thành phần xơ có khả năng giữ nước cao và được gọi là xơ tan. Xơ tan có trong các loại trái cây, nước trái cây (mận, quả mọng), bông cải, cà rốt, khoai tây, khoai lang, hành. Xơ tan có khả năng làm giảm nguy cơ bệnh tim mạch. Ngoài ra, chất xơ còn gây cảm giác no giúp tránh ăn quá nhiều năng lượng gây tăng cân. Do đó, khuyến cáo chung khuyên nên ăn 20 - 35g chất xơ trong ngày.
6. Rượu (alcohol)
Những nghiên cứu cho thấy, nếu tiêu thụ lượng rượu trong mức cho phép liên quan đến giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch. Tuy nhiên, nếu uống rượu quá nhiều và kéo dài liên quan đến tăng nguy cơ tim mạch, tăng huyết áp và đột quỵ. Lượng khuyến nghị nên dưới 30g alcohol.
7. Các vi chất dinh dưỡng
Các vi chất dinh dưỡng như các vitamin và khoáng chất rất cần cho quá trình chuyển hóa trong cơ thể. Khi thiếu vitamin B12, B6, axit folic làm tăng nguy cơ mắc bệnh mạch máu.
Ngoài ra, các chất chống oxy hóa cũng ảnh hưởng đến quá trình xơ vữa động mạch. Chế độ ăn có nhiều chất chống oxy hóa (vitamin E, vitamin A, vitamin C, selen) có thể giảm tới 20 - 40% nguy cơ bệnh mạch vành.
Bên cạnh đó, các muối khoáng vô cùng quan trọng trong chế độ dinh dưỡng, nhất là trong tim mạch. Natri (từ muối ăn) và các chất điện giải khác đều ảnh hưởng đến huyết áp. Khoảng 50% người cao huyết áp có nhạy cảm với muối. Khuyến cáo gần đây khuyên nên hạn chế lượng muối ăn vào dưới 6g/ngày…
Ngược lại, K, Mg, Ca liên quan nghịch với huyết áp. Chế độ ăn đủ các vi chất này giúp làm giảm huyết áp. Để tăng cường các chất điện giải này bằng cách tăng cường ăn lượng rau, trái cây, ngũ cốc nguyên hạt và các sản phẩm làm từ sữa ít béo.