Điều trị rung nhĩ bằng sóng cao tần cho bệnh nhân tại Bệnh viện E.
Dễ chết vì nhồi máu cơ tim và đột quỵ
Anh Nguyễn Văn Q. 32 tuổi (Thanh Hóa), thỉnh thoảng bị cơn hồi hộp trống ngực, khó thở, tức ngực, mệt mỏi… thoáng qua nên không mấy để ý. Đến khi đau ngực, khó thở, mệt mỏi nhiều anh mới đi khám thì phải nhập viện điều trị vì xuất hiện nhiều cơn rung nhĩ trong ngày. Dù được điều trị bằng các loại thuốc tối ưu nhưng bệnh của anh không thuyên giảm.
GS.TS. Lê Ngọc Thành, Giám đốc Bệnh viện E chia sẻ, nếu như trước đây, các bác sĩ “bó tay” với các trường hợp bệnh nhân mắc bệnh rung nhĩ không dung nạp thuốc hoặc trơ với thuốc chống rối loạn nhịp. Rất may cho bệnh nhân này, hiện nay, Trung tâm Tim mạch, Bệnh viện E là một trong số ít các bệnh viện chuyên về Tim mạch ở Việt Nam triển khai điều trị rung nhĩ bằng phương pháp sử dụng năng lượng sóng có tần số radio với sự hỗ trợ công nghệ lập bản đồ điện học 3 chiều (3D). Kết quả sau 5 giờ làm thủ thuật, các tín hiệu điện trong buồng tim gây rung nhĩ bị loại bỏ hoàn toàn, bệnh nhân không còn xuất hiện rung nhĩ khi kích thích buồng tim theo chương trình và trở lại nhịp tim bình thường.
ThS.BS Vũ Văn Bạ, Khoa Nội tim mạch người lớn, Trung tâm tim mạch, Bệnh viện E cho biết, rung nhĩ là tình trạng buồng nhĩ đập không đều và hỗn loạn, không đồng bộ với nhịp đập của hai buồng thất. Rung nhĩ thường làm nhịp tim không đều và nhanh, khiến tim bơm máu không hiệu quả ở mỗi nhịp đập. Tình trạng này có thể tạm thời, thoáng qua rồi hết nên người bệnh thường không để ý và điều trị sớm. Điều đáng nói, nhiều người mắc rung nhĩ với chỉ xuất hiện các triệu chứng như hồi hộp đánh trống ngực, mệt, yếu, nhức đầu, huyết áp thấp, khó thở... nhưng có người bệnh tiến triển thầm lặng không triệu chứng.
Thăm khám cho bệnh nhân bị rung nhĩ |
Tuy nhiên, rung nhĩ có thể đưa đến một số biến chứng nguy hiểm, đặc biệt là đột quỵ và suy tim (người mắc rung nhĩ tăng nguy cơ đột quỵ não gấp 5 lần, suy tim gấp 3 lần, tử vong gấp 2 lần so với người bình thường). Hiện chưa rõ nguyên nhân gây rung nhĩ, nhưng tỷ lệ xuất hiện rung nhĩ cao hơn ở bệnh nhân có bệnh lý van tim, mạch vành, tăng huyết áp, đái tháo đường, bệnh lý tuyến giáp, tuổi cao… Đặc biệt, tỷ lệ rung nhĩ tăng dần theo tuổi, bệnh thường gặp ở người lớn tuổi trên 75 tuổi.
Điều trị triệt căn, ít tai biến
ThS Bạ nhấn mạnh, rung nhĩ luôn song hành với nguy cơ hình thành huyết khối, một biến chứng nguy hiểm, do vậy người bệnh phải điều trị rất nhiều loại thuốc hàng ngày: thuốc chống loạn nhịp, thuốc chống đông, asipirin…Trường hợp rung nhĩ dai dẳng được điều trị bằng sốc điện, khi nhịp tim về bình thường tiếp tục dùng thuốc. Tuy nhiên, hai phương pháp này duy trì nhịp không cao, chỉ ngăn ngừa tái phát ít hơn 50% các trường hợp. Triệt đốt rung nhĩ bằng sóng cao tần là phương pháp mới được chỉ định cho các bệnh nhân không đáp ứng với các phương pháp điều trị khác hoặc không muốn điều trị nội khoa.
Với phương pháp này, các bác sĩ đưa dụng cụ thăm dò điện học vào tận trong buồng tim của bệnh nhân, kết hợp dựng hình 3D xác định các ổ nghi ngờ gây rung nhĩ. Sau đó, dùng năng lượng RF (radio frequency) loại bỏ hoàn toàn hoặc cô lập ổ bất thường đó của bệnh nhân. Kết quả sau 5 giờ làm thủ thuật, các tín hiệu điện trong buồng tim gây rung nhĩ bị loại bỏ hoàn toàn, bệnh nhân không còn xuất hiện rung nhĩ khi kích thích buồng tim theo chương trình và trở lại nhịp tim bình thường…
Theo ThS Bạ, tính ưu việt của phương pháp điều trị này là có tỉ lệ thành công cao, khoảng 80%, phát hiện bệnh và xử trí sớm có tỷ lệ thành công cao hơn, ít biến chứng, không còn cảm giác khó chịu và hồi hộp trống ngực, không đau đớn… Người bệnh không cần sử dụng các loại thuốc điều trị rung nhĩ lâu dài, dự phòng các biến cố đột quỵ và suy tim sau này. Người bệnh có thể đi lại và hoạt động bình thường sau vài ngày can thiệp.
GS Thành cảnh báo, trước đây rung nhĩ chỉ gặp ở người già, người trẻ dưới 40 tuổi rất hiếm gặp nhưng hiện tại ngày càng trẻ hóa. Vì thế, để có thể phát hiện sớm rung nhĩ hoặc các tình trạng rối loạn nhịp tim (tim đập nhanh và không đều, mệt mỏi, chóng mặt, buồn nôn và khó thở, thậm chí ngất xỉu...) người dân cần đi kiểm tra nhịp mạch thường xuyên và định kỳ ít nhất 6 tháng/lần để phát hiện sớm bệnh.
Khi bệnh nhân rung nhĩ xuất hiện: đau thắt ngực hơn 5 phút, đau lan lên cổ hàm và cánh tay, vã mồ hôi lạnh đột ngột, cảm thấy đầu óc quay cuồng và khó thở, ho ra máu, tê bì tay chân và mặt, đau đầu dữ dội, giảm thị lực…là dấu hiệu cảnh báo đột quỵ hoặc nhồi máu não.