Thường gặp nhất trong chấn thương khớp gối
Khớp gối được cấu thành bởi ba xương: Đầu dưới xương đùi, đầu trên xương chầy và xương bánh chè. Dây chằng chéo trước là một trong bốn dây chằng chính (dây chằng bên trong (MCL), dây chằng bên ngoài (LCL), dây chằng chéo trước (ACL) và dây chằng chéo sau (PCL) của khớp gối, kết nối xương chầy với xương đùi.
Dây chằng chéo trước chạy chéo giữa khớp gối, giữ xương chầy không bị trượt ra trước và xoay trong. Bề mặt chịu tải của khớp gối là lớp sụn khớp bao bọc đầu trên xương chầy (mâm chầy) và đầu dưới xương đùi (lồi cầu đùi). Lót giữa lồi cầu đùi và mâm chầy là hai sụn chêm. Sụn chêm có vai trò như giảm xóc, phân tán và hấp thụ bớt trọng lực dồn lên khớp gối.
Đứt dây chằng chéo trước là loại tổn thương thường gặp nhất trong chấn thương khớp gối. Nguyên nhân thường do chấn thương thể thao, tai nạn giao thông, và tai nạn sinh hoạt. Tại Mỹ, hàng năm có khoảng 200.000 người bị tổn thương dây chằng chéo trước, trong hơn nửa số đó phải điều trị bằng phẫu thuật. Khoảng 50% những tổn thương dây chằng chéo trước có kèm theo các tổn thương khác như rách sụn chêm, bong sụn khớp, tổn thương dây chằng chéo sau và phù tủy xương…
Khoảng 70% tổn thương dây chằng chéo trước do nguyên nhân chấn thương gián tiếp, trong khi khoảng 30% do chấn thương trực tiếp. Tổn thương dây chằng chéo trước thường xảy ra khi chấn thương trực tiếp vào mặt trước gối, hay gặp trong cú va chạm trong tình huống cản bóng; tai nạn giao thông (tổn thương trực tiếp); Đang chạy, dừng đột ngột và chuyển hướng nhanh chóng, xoay người sang phía đối diện trong lúc bàn chân giữ nguyên, cú nhảy cao, rơi một chân tiếp đất trong tư thế không thuận (tổn thương gián tiếp).
Tái tạo dây chằng trước
Khi dây chằng bị tổn thương, bệnh nhân có thể cảm nhận được tiếng “rắc”. Sau đó gối sưng đau và hạn chế vận động. Dù bệnh nhân có điều trị hay không thì tình trạng sưng đau dần cũng tự hết. Nhưng sau đó xuất hiện lỏng gối: bệnh nhân có cảm giác chân yếu khi đi lại; Khó khăn khi đứng trụ một chân bên chấn thương; Khi chạy nhanh có cảm giác ríu chân, dễ vấp ngã; Khi đi nhanh trên đường không bằng phẳng, dễ có cảm giác trẹo gối; Lên cầu thang cảm giác không thật chân, khó khăn khi đi xuống dốc hoặc bước xuống cầu thang. Nếu không điều trị sẽ dẫn tới teo cơ: Đùi bên chấn thương nhỏ dần, do đó chân càng này càng yếu, nhất là khi cơ đùi teo nhiều. Teo cơ dễ xẩy ra ở những người ít hoạt động như dân văn phòng, học sinh…
Tuy nhiên với vận động viên thể thao, triệu chứng lỏng gối thường biểu hiện không rõ ràng vì cơ đùi rắn chắc làm cho gối vững giả tạo mặc dù dây chằng chéo trước đã đứt hoàn toàn. Hậu quả của quá trình lỏng gối là xuất hiện các tổn thương thứ phát như rách sụn chêm (>90%), bong sụn khớp (70%), và cuối cùng là thoái hóa khớp gối (60% sau 10 năm).
Để xác định bệnh cần chụp X-quang thông thường để đánh giá tình trạng xương, chỗ bám của dây chằng chéo trước. Chụp MRI (cộng hưởng từ), ngoài giúp chẩn đoán có tổn thương dây chằng chéo trước, phim MRI còn cho biết các tổn thương khác kèm theo như sụn chêm, sụn khớp và các dây chằng khác.
Điều trị bệnh tùy thuộc vào mức độ tổn thương. Đứt một phần dây chằng chéo trước (căng giãn, đứt không hoàn toàn) thì điều trị bảo tồn: phần lớn là tốt nếu được tập phục hồi chức năng đúng, đủ thời gian, thường ít nhất là 3 tháng. Tuy nhiên, có nhiều bệnh nhân mặc dù tổn thương không hoàn toàn nhưng gối vẫn mất vững. Đứt hoàn toàn dây chằng chéo trước: phần lớn tiên lượng kém nếu không được phẫu thuật. Người bệnh bị lỏng gối nhiều, không thể bước đi bình thường, mất khả năng chơi thể thao.
Phẫu thuật khâu lại dây chằng chéo từ lâu đã không mang lại hiệu quả, vì vậy, tái tạo lại dây chằng chéo trước bằng một mảnh gân khác thay thế qua nội soi là phương pháp phẫu thuật phổ biến nhất hiện nay. Các vật liệu thay thế (mảnh ghép) có thể là: Gân bánh chè tự thân (của chính bệnh nhân); Gân Hamstring tự thân (gân cơ thon và cơ bán gân); Gân cơ tứ đầu tự thân; Gân đồng loại (lấy từ người hiến tặng): gân A-sin, gân bánh chè, gân chầy sau, gân mác bên dài…