Hình minh họa.
Những vần thơ khi đi sứ
Trong bài Thần hồ Động Đình trong Vũ Trung tùy bút, Phạm Đình Hổ có chép bài thơ Điếu Võ Khâm Tự của Hồ Sĩ Đống.
Bài thơ như sau: Hoàng hoa lưỡng độ phú tư tuân – Uyên đức kỳ niên cánh kỷ nhân – Cộng tiễn bang giao nhàn ngọc bạch – Thùy tri tiên cốt lịch phong trần – Sinh sô lệ sái đồng chu khách – Tái bút danh qui tuẫn quốc thần – Trù tướng thái hồ thù nguyệt sắc – Dạ lai do chiếu ốc lương tần.
Dịch là: Hai độ hoàng hoa chánh sứ thần – Tuổi cao đức trọng bậc công khanh – Bang giao những tưởng như ngà ngọc – Tiên cốt nào hay gió bụi trần – Giọt lệ đồng châu dâng một lễ – Tiếng danh tài bút bậc công thần – Trăng thu thấp thoáng trên hồ rộng – Lại chiếu quê nhà bóng cố nhân.
Trên đường đi sứ Hồ Sĩ Đống có làm bài thơ Sơn Hành tức sự: Chu đạo uy trì lạc bí xâm – Đạp cùng binh dã cánh xuyên tâm – Lô kỳ kinh hiểu phong nhưng phất – Thụ sắc hòa lam nhật tận âm -Thiên địa an bài trùng hạn cách – Sơn khê bão lịch kỷ cao thâm – Cần lao tự cổ nhân thần chức – Bồng thỉ tang hồ tự túc tâm.
Dịch là: Đường dài thăm thẳm ngựa xe băng – Đi hết đồng bằng xuyên lối rừng – Sớm sáng cờ lau phơ phất gió – Chiều tà cây khí tối tăm đồng – An bài trời đất bao ngăn trở – Trải khắp non khe thẳm điệp trùng – Tự cổ cần lao là phận dưới – Chí khí tang bồng vốn tự thân.
Tại Yên Kinh trong thời gian đi sứ, Hồ Sĩ Đống có gặp gỡ các sứ thần Triều Tiên là Lý Quang, Trinh Vũ Thuần và Duẫn Phường khi chia tay ông có bài thơ tặng các sứ thần: Công đình triều bãi lộ phân thù – Dao chỉ Đông Doanh ức sứ hồ – Chí khí khả năng truy cảo đới – Thiên chương hề quản phó tương bồ – Phu nhân thử nhật xa đồng quỹ – Binh lễ tòng lai quốc hữu nho – Vạn lý tương phùng tri phủ dị – Lục niên vương hội nhất thành đồ.
Dịch là: Việc nước xong rồi hai ngã đường – Chỉ bể Đông nhìn bao vấn vương – Phận kẽ sĩ phu tròn chí khí – Trời cho duyên phận chuyện văn chương – Khoe văn điển lệ xe cùng quỹ – Giữ lễ trí tài sĩ đảm dương – Vạn dậm tương phùng nào có dễ – Sáu năm hội ngộ sứ triều vương.
Dẹp nạn kiêu binh
Sau khi đi sứ về năm 1778, Hồ Sĩ Đống được thăng Tả Thị lang bộ Hộ. tước Dao Đình hầu. Tháng 9 năm Nhâm Dần 1782 chúa Trịnh Sâm mất. Kiêu binh giết Việp Quận công Hoàng Đình Bảo, phế chúa Trịnh Cán, đưa con cả Trịnh Tông lên nối ngôi.
Trịnh Tông phong Hồ Sĩ Đống làm Bồi tụng, Hữu thị lang bộ Hộ. Hồ Sĩ Đống được cử đi phủ dụ kiêu binh có hiệu quả, quân lính nghe lời ông, nhân dân tin cậy ông.
Năm 1783, ông xin thôi chức về thọ tang cha Hồ Sĩ Danh (1706 – 1783). Tháng 10, Hồ Sĩ Đống đang có tang được triệu về kinh, đối phó tình hình, được chuyển sang quan võ, nhậm chức Đô Chỉ huy sứ, kiêm Bồi tụng phủ sự (Phó Thủ tướng) cùng Hành Tham tụng Bùi Huy Bích xử trí mọi việc có phương pháp, dần dần ổn định tình hình kiêu binh ở kinh đô.
Hồ Sĩ Đống được ban chức Tham Đốc kiêm Ngự Sử đài, Đô Ngự sử Bồi tụng tước Ban Quận công. Ông được cử đi Phú Xuân cai quản Tả Uy Cơ, Án sát Quảng Nam, Đốc thị Thuận Hóa (chức vụ Bảng nhãn Lê Quý Đôn từng phụ trách từ năm 1776, khi Hoàng Ngũ Phúc và Nguyễn Nghiễm chiếm được Thuận Hóa của chúa Nguyễn).
Tại Thuận Hóa, quan trấn thủ là tướng Phạm Ngô Cầu, phó tướng là Hoàng Đình Thể, hiệp mưu là Vũ Tá Kiên, có 3000 quân lưu đồn và 30.000 quân thay phiên đi thú.
Được cử đi kinh lí ở Quảng Nam, Hồ Sĩ Đống rất lo lắng về địa thế ở đấy, tâu xin rút tướng Phạm Ngô Cầu về, thay tướng khác tài giỏi hơn để trấn an vùng núi. Nhưng vua, chúa không chấp thuận, nên về sau việc biến phát động cũng từ đó.
(còn nữa)
Nguyễn Bảo Nam