Cúc là cây sống dai, hay sống 1 năm. Thân đứng nhẵn có rãnh, lá mặt dưới có lông và trắng hơn, mặt trên có 3-5 thùy trái xoan tròn đầu hay hơi nhọn, có răng ở mép. Cuống lá có tai ở gốc. Đầu to, các lá bắc ở ngoài hình chỉ, phủ lông trắng, các lá trong hình thuôn trái xoan. Trong đầu có 1-2 hàng hoa hình lưỡi nhỏ, màu trắng, các hoa ở giữa hình ống nhiều màu vàng nhạt. Không có mào lông. Tràng hoa hình ống có tuyến, 5 thùy. Nhị 6 bao phấn ở tai ngắn. Bầu nhẵn, nghiêng.
Cây được trồng ở nhiều địa phương trong nước ta để làm thuốc. Thu hái vào cuối mùa thu, đầu mùa đông khoảng tháng 9-11, khi hoa nở. Cắt cả cây phơi khô trong chỗ râm mát rồi ngắt lấy hoa hoặc chỉ hái lấy hoa, phơi khô hoặc sấy khô là được.
Bộ phận dùng làm thuốc: Hoa khô, loại hoa đóa nguyên vẹn, màu tươi sáng, thơm, bỏ cành, cuống, lá.
Thành phần hóa học: Trong hoa có tinh dầu, có chất flavonoid, vitamin A, adenin, cholin, stachydrin. Sắc tố của hoa là Crysantemin khi thủy phân sẽ được glucoza và xyanidin.
Hoa có vị đắng, ngọt, tính bình, không độc vào các kinh: Phế, tỳ, can, thận. Có công dụng thanh tán phong nhiệt, bình can, minh mục, thanh nhiệt, giải độc.
Chủ trị: Chữa nhức đầu, chóng mặt, cao huyết áp, hoa mắt, đau mắt đỏ, mắt mờ, chảy nước mắt. Liều lượng ngày 2- 10g sắc uống.
TTND.BSCC Trần Văn Bản (Chủ tịch Hội Đông y Việt Nam)