Gần 3 tháng u tái phát nặng 11kg
Bà Nguyễn Thị T. 84 tuổi, nhập viện ngày 23/03/2019, trong tình trạng bụng trướng to, tự sờ thấy u ở bụng, ăn uống kém, khối u to chèn ép gây đau tức quanh rốn, có lúc khó thở nhẹ. Người nhà cho biết, bệnh nhân được mổ cắt u bụng 3 lần tại Bệnh viện Việt Đức, lần gần nhất cách đây 3 tháng.
Thăm khám cho thấy, khối u bụng kích thước lớn 15x 20cm, di động kém, ấn đau tức, ranh giới không rõ. Kết quả chụp cắt lớp vi tính ổ bụng: Hình ảnh tổn thương tỷ trọng hỗn hợp dạng mỡ và mô mềm kích thước lớn khoảng 15cm x20cm, phát triển sau phúc mạc đẩy tuỵ, mạc treo, quai ruột ra phía trước, bao quanh các mạch máu trong ổ bụng.
PGS.TS Triệu Triều Dương, Viện trưởng Viện tiêu hóa Bệnh viện TƯQĐ 108 cho biết, u sarcoma mỡ (Liposarcoma) là một loại ung thư phát triển từ tế bào mỡ trong mô mềm sâu, chiếm khoảng 1% ở các loại ung thư ở người lớn và 12% các loại ung thư ở trẻ em. Khoảng 80% trường hợp mắc mới xuất phát nguyên uỷ từ mô mềm sâu và từ xương hay gặp u sau phúc mạc, bên trong đùi...
Khối u thường có kích thước lớn, và có xu hướng có nhiều khối u nhỏ vệ tinh xung quanh. Phổ biến nhất ở người trung niên và người cao tuổi (từ 40 tuổi trở lên). Hàng năm có 2,5/1 triệu dân trường hợp xảy ra, xảy ra phổ biến nhất ở các chi 52%, trong phúc mạc chiếm 19%. U sarcoma mỡ thể đa hình là một trong 5 phân nhóm u sarcoma mỡ chiếm tỷ lệ ít nhất, độ ác tính cao nhất.
Bệnh nhân đã được phẫu thuật lần 4 cắt bỏ khối u nặng 11kg. kết quả giải phẫu bệnh sau mổ: U sarcoma mỡ thể đa hình (PLPS)
Không có triệu chứng dễ xâm lấn và tái phát nhiều nơi
Theo PGS.TS Triệu Triều Dương, sacom mô mỡ thường không có triệu chứng, khi có các triệu chứng lâm sàng, u thường phát triển rất lớn về kích thước, hoặc xâm lấn vào các cơ quan xung quanh. Chẩn đoán hình ảnh bao gồm siêu âm, chụp cắt lớp vi tính (CLVT) hoặc cộng hưởng từ (MRI) có giá trị cao cho các thông tin trong chẩn đoán vị trí, kích thước của khối u xâm lấn các cấu trúc liên quan xung quanh giúp đưa ra chiến thuật điều trị hợp lý.
Phẫu thuật là phương pháp điều trị chính của PLPS. Tỷ lệ tái phát tại chỗ, và di căn xa tương ứng 30-50%. Tỷ lệ sống 5 năm là 57%, tiên lượng xấu hơn đáng kể so với các loại liposarcoma biệt hoá cao.
Theo PGS.TS Dương, do u có tỷ lệ tái phát cao nên phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn là phương pháp điều trị chủ yếu, tức là phải cắt bỏ khối u và bất kỳ cơ quan nào xâm lấn. Phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn khối u mỡ ác tính sau phúc mạc có thể làm tăng tỉ lệ sống sót 5 năm từ 16,7% lên 58%.
Tuy nhiên, việc cắt bỏ hoàn toàn là một thách thức, bởi vì không dễ phân biệt với tổ chức xung quanh. Đôi khi phẫu thuật cắt bỏ kết hợp để đạt được độ triệt căn; thận là cơ quan thường gặp nhất, tiếp theo là đại tràng. Trong trường hợp trên, khối liposarcoma xâm lấn một phần khoang mỡ trước thận bên trái và đã được loại bỏ hoàn toàn về mặt đại thể. Một số nghiên cứu trước đây đã ủng hộ lập luận trên và chỉ ra rằng nếu khối liposarcoma xâm nhập vào thận thì cần phải ghép thận thận. Không có bằng chứng cho thấy hóa trị liệu hay xạ trị cải thiện tỷ lệ sống sót.
Ngay cả với việc loại bỏ hoàn toàn các tế bào liposarcoma, tiên lượng vẫn còn xấu. Tỉ lệ sống sót sau 5 năm của bệnh nhân là 83%, tỉ lệ sống sót được cải thiện ở những bệnh nhân được loại bỏ khối u hoàn toàn. Sự tái phát tại chỗ vẫn là nguyên nhân chính gây tử vong.
Điều trị u mỡ ác tính vẫn còn nhiều khó khăn cần các phẫu thuật viên kinh nghiệm, dụng cụ chuyên sâu phối hợp các chuyên khoa. Bệnh nhân phải được tái khám định kỳ 3 tháng 1 lần để đánh giá khả năng tái phát kéo dài thời gian sống.