Bộ Tài chính lý giải, thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) là sắc thuế gián thu, thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội. Trong đó, xăng là nhiên liệu gốc hóa thạch không tái tạo nên cần phải sử dụng tiết kiệm, và theo thông lệ quốc tế xăng luôn thuộc đối tượng chịu thuế TTĐB.
Hiện hầu hết các nước trên thế giới đều thu thuế TTĐB đối với mặt hàng xăng. Còn ở Việt Nam đã quy định xăng thuộc đối tượng chịu thuế TTĐB từ năm 1999.
Mặc dù là vậy, nhưng Bộ cũng cho rằng cần phải linh hoạt trong việc điều chỉnh giá xăng dầu, bám sát thị trường nhưng cũng phải hài hòa giữa lợi ích Nhà nước và người nộp thuế. Tỷ trọng thuế trong giá bán xăng dầu ở các nước khác rơi vào khoảng 45% – 60% (ngoại trừ một số quốc gia có trữ lượng dầu mỏ lớn).
Cụ thể, tỷ trọng thuế trong giá xăng dầu bán ra ở nước ta vẫn thấp hơn mức bình quân chung, dù làm theo thông lệ chung. Và tỷ trọng này sẽ giảm xuống khi giá xăng dầu tăng lên. Còn lại, tỷ lệ từ 5% – 8% giá bán xăng dầu là chi phí vận chuyển và lợi nhuận định mức.
Thời gian qua, tình hình xăng dầu ở nước ta và thế giới có sự biến đổi mạnh theo xu hướng không ngừng đi lên. Nguyên nhân là do xung đột giữa Nga – Ukraina và và các lệnh trừng phạt của Mỹ và EU đối với Nga.
Do đó, Bộ Tài chính đã chủ động phối hợp với Bộ Công thương và các cơ quan có liên quan nghiên cứu trình Chính phủ, trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết về mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu, mỡ nhờn.
Việc này giúp bảo đảm ổn định giá xăng dầu kịp thời trước biến động của giá dầu thô trên thị trường thế giới, góp phần hỗ trợ phục hồi, phát triển sản xuất, phát triển kinh tế xã hội.
Đáng chú ý, sau khi giảm thuế môi trường đối với xăng dầu, nhiều ý kiến cho rằng cần điều chỉnh cả thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN). Bộ Tài chính cho rằng, theo quy định thuế suất MFN đối với mặt hàng xăng là 20%, các mặt hàng dầu diezen, mazut, dầu hỏa và nhiên liệu bay có mức thuế nhập khẩu MFN là 7%.
Theo các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam là thành viên, các mặt hàng xăng E5 và E10 có mức thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt (thuế suất FTA). Ngoài ra, xăng dầu nước ta chủ yếu nhập khẩu từ các nước ASEAN và Hàn Quốc và phải chịu mức thuế nhập khẩu FTA là 8% đối với xăng và 0% đối với dầu.
Trong khi, thuế MFN chiếm khoảng 6% tổng nhu cầu tiêu thụ xăng dầu trong nước. Khi kiểm soát được dịch bệnh và chuỗi cung ứng được phục hồi, tỷ trọng xăng dầu nhập khẩu theo thuế suất FTA dự báo sẽ tăng trở lại.
Như vậy, với tình hình thực tế, việc điều chỉnh giảm mức thuế suất MFN đối với xăng dầu dường như không thể làm cho giá xăng dầu trong nước giảm vì tỷ trọng nhập khẩu theo thuế suất MFN rất thấp.
Bộ còn cho rằng, việc điều chỉnh giảm thuế suất MFN đối với mặt hàng xăng dầu sẽ thu hẹp dư địa đàm phán các FTA mới theo nguyên tắc có đi có lại.