Đó là thông tin Tổng cục Dân số - KHHGĐ tổ chức Hội nghị nhân Ngày Tránh thai thế giới 26/9, với chủ đề: “Thực hiện kế hoạch hóa gia đình vì sức khỏe, hạnh phúc của mỗi gia đình và sự phát triển bền vững của đất nước” tại Hà Nội ngày 26/9/2022.
Không đáp ứng nhu cầu tránh thai khiến mang thai ngoài ý muốn tăng cao
Trong giai đoạn 2015-2019, mỗi năm trên thế giới có 121 triệu ca mang thai ngoài ý muốn, trong số đó 61% được giải quyết bằng phá thai, tương đương với 73 triệu ca phá thai mỗi năm.
Theo ước tính, trên thế giới có khoảng 45% số ca phá thai không an toàn, và hơn một nửa trong số đó xảy ra ở châu Á, phần lớn tập trung ở Nam Á và Trung Á. Mỗi năm có khoảng 4,7%-13,2% số ca tử vong mẹ được cho là do phá thai không an toàn. Ở các quốc gia phát triển, ước tính có 30 phụ nữ tử vong trên 100.000 ca phá thai không an toàn.
Nhưng số ca tử vong tăng lên 220 ở các quốc gia đang phát triển và tăng đến 520 trên 100.000 ca phá thai không an toàn ở khu vực tiểu vùng Sahara của châu Phi. Các con số ước tính về mang thai ngoài ý muốn và tình trạng phá thai chỉ ra xu hướng sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục cũng như quyền tự chủ của phụ nữ.
Mang thai ngoài ý muốn xảy ra khi phụ nữ muốn ngừng sinh con, giãn khoảng cách giữa các lần sinh nhưng không dùng biện pháp tránh thai, hay dùng biện pháp tránh thai nhưng không hiệu quả, hoặc phải quan hệ tình dục trái ý muốn: một số giải quyết bằng cách phá thai, một số khác lựa chọn sinh con dù không muốn.
Mục tiêu của Ngày tránh thai Thế giới nhằm nâng cao nhận thức của mọi tầng lớp nhân dân, cộng đồng xã hội đặc biệt là giới trẻ, nhóm vị thành niên, thanh niên, phụ nữ và nam giới trong độ tuổi sinh đẻ về tất cả các biện pháp tránh thai để giúp họ có sự lựa chọn sáng suốt cho sức khỏe sinh sản.
Sau gần 50 năm nỗ lực, Việt Nam đã đạt mức sinh thế vào năm 2006 với tổng tỷ suất sinh (TFR) = 2,09 con/phụ nữ và được duy trì trong suốt 16 năm qua.
Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ trong bảo vệ, chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em. Tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi (IMR) và tỷ suất chết trẻ em dưới 5 tuổi (U5MR) đều giảm mạnh. Năm 2020, tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi là 13,9 trẻ tử vong/1.000 trẻ sinh ra sống; tỷ suất chết trẻ em dưới 5 tuổi là 22,3 trẻ tử vong/1.000 trẻ sinh ra sống, giảm gần 3 lần so với năm 1979.
Tỷ suất chết mẹ (MMR) giảm mạnh, từ 69 ca/100.000 trẻ sinh ra sống năm 2009 xuống 46 ca/100.000 trẻ sinh ra sống năm 2019.
Tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại là 67% vào năm 2020. Thành công của Chương trình KHHGĐ Việt Nam là tăng nhanh tỷ lệ sử dụng biện pháp tránh thai góp phần phòng tránh mang thai ngoài ý muốn, giảm thiểu tối đa việc phá thai và giảm nguy cơ tử vong do các nguyên nhân liên quan đến mang thai và sinh con.
Tuy nhiên, theo kết quả Điều tra các mục tiêu phát triển bền vững về trẻ em và phụ nữ Việt Nam 2020-2021 (SDGCW Việt Nam 2020-2021) do Tổng cục Thống kê, UNICEF và UNFPA thực hiện thì tổng nhu cầu không được đáp ứng về KHHGĐ đối với phụ nữ hiện đã kết hôn hoặc sống chung là 10,1%. Tỷ lệ này cao hơn so với 6,1% của Điều tra tương tự năm 2014.
Đối với phụ nữ có quan hệ tình dục, hiện chưa kết hôn hoặc không sống chung như vợ chồng, tổng nhu cầu KHHGĐ không được đáp ứng là 40,7%, cao hơn nhiều so với phụ nữ đã kết hôn hoặc sống chung.
Nhu cầu không được đáp ứng về KHHGĐ dẫn đến mang thai ngoài ý muốn và tỷ lệ phá thai cao. Mang thai ngoài ý muốn chiếm hơn một nửa số ca phá thai (53,6%). Tỷ suất phá thai là 68 ca trên 1.000 ca sinh ra sống.
9 lần/1000 phụ nữ từ 25 – 29 phá thai
Nghiên cứu đánh giá chất lượng dịch vụ KHHGĐ ở Việt Nam do Quỹ Dân số LHQ (UNFPA) thực hiện năm 2016 cho thấy phá thai lặp lại còn khá phổ biến. Khoảng 17,4% phụ nữ cho biết đã từng phá thai trong cuộc đời của mình. Trong số những phụ nữ này, 73,1% đã từng phá thai một lần trong đời, 21,8% đã từng phá thai 2 lần và 5,1% đã từng phá thai ít nhất 3 lần trong đời.
Về tỷ lệ phá thai theo độ tuổi (ASAR), các ước tính trong Điều tra các mục tiêu phát triển bền vững về trẻ em và phụ nữ Việt Nam 2020-2021 cho thấy tỷ lệ phá thai cao nhất ở phụ nữ từ 25-29 tuổi (9 lần/1.000 phụ nữ), tiếp theo là nhóm từ 20-24 tuổi (7 lần/1.000 phụ nữ), rồi đến nhóm từ 30-39 tuổi (6 lần/1.000 phụ nữ). Nhóm vị thành niên từ 15-19 tuổi có tỷ lệ phá thai là 1 lần/1.000 phụ nữ (SDGCW Việt Nam 2020-2021).
Thực hiện phá thai không an toàn trong điều kiện kém an toàn nhất có thể dẫn tới một số biến chứng như:
Sót thai gây rong huyết do không lấy hết toàn bộ phần phôi thai.
Rách cổ tử cung do thao tác thực hiện thô bạo, không đúng kỹ thuật gây viêm nhiễm. Trường hợp nặng hơn có thể gây băng huyết đe dọa đến tính mạng của thai phụ.
Tắc vòi trứng, viêm nội mạc tử cung do dụng cụ không được tiệt trùng tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập và có thể dẫn đến vô sinh.
Rối loạn kinh nguyệt hoặc không có kinh nguyệt do viêm dính tử cung.
Thủng tử cung.
Sốc do đau, do dùng thuốc trong quá trình thực hiện thủ thuật.
Nghị quyết số 21-NQ/TW về công tác dân số trong tình hình mới đã đặt ra mục tiêu đến năm 2030 “Duy trì vững chắc mức sinh thay thế (bình quân mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có 2,1 con), quy mô dân số 104 triệu người. Giảm 50% chênh lệch mức sinh giữa nông thôn và thành thị, miền núi và đồng bằng; 50% số tỉnh đạt mức sinh thay thế; mọi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đều được tiếp cận thuận tiện với các biện pháp tránh thai hiện đại; giảm 2/3 số vị thành niên và thanh niên có thai ngoài ý muốn”.